1. M ĐẦU

 Thuật ngữ “nghiên cứu bài học” (NCBH) (tiếng Anh là Lesson Study hoặc Lesson Research) được chuyển từ nguyên nghĩa tiếng Nhật (jugyou kenkyuu) . Thuật ngữ NCBH có nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, từ thời Meiji (1868 -1912), như một biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên thông qua nghiên cứu cải tiến các hoạt động dạy học các bài học cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng học của học sinh. Cho đến nay NCBH được xem như một mô hình và cách tiếp cận nghề nghiệp của giáo viên và vẫn được sử dụng rộng rãi tại các trường học ở Nhật Bản, hình thức này đã được áp dụng trên nhiều nước, bước đầu được áp dụng ở Việt Nam và đã chứng minh được tính khả thi của nó trong việc bồi dưỡng và phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên so với các phương pháp truyền thống khác. Điều đó cho thấy tính ưu việt và sức hấp dẫn to lớn của NCBH.

Trong bài báo này chúng tôi giới thiệu việc nghiên cứu, quy trình xây dựng và sử dụng NCBH cho giáo viên và sinh viên sư phạm (là giáo viên tương lai) và lợi ích to lớn mà NCBH mang lại.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.1. Yêu cầu đối với giáo viên khi tham gia nghiên cứu bài học

      Khi tham gia NCBH, các giáo viên sẽ họp thành từng nhóm nhỏ 4-6 người có thể khác nhau về trình độ chuyên môn, khác nhau về chuyên ngành thậm chí có thể khác trường. Tuy nhiên, để thuận lợi cho quá trình thực hiện bài học, thông thường các nhóm NCBH là các giáo viên cùng trường và có cùng chuyên ngành. Trong quá trình tiến hành bài học nghiên cứu có thể có sự tham gia của các giáo viên khác ngoài nhóm hoặc có thể mời những học giả, những giáo sư tiến sĩ đến từ các trường Đại học, những chuyên viên của Bộ giáo dục, v.v… những người này sẽ đóng góp những ý kiến chuyên môn, quan sát bài học và đưa ra những ý kiến, nhận xét, góp ý để quá trình trở nên hiệu quả hơn.

        Các giáo viên cùng nhau nghiên cứu, xây dựng mục tiêu học tập cho học sinh. Sự tham gia của các thành viên phải mang tính chất tự nguyện trên cơ sở muốn nâng cao hiệu quả học tập của học sinh. Trong nhóm các thành viên cùng nhau hợp tác hướng đến mục tiêu chung của bài học, cùng chia sẻ kinh nghiệm và cùng nhận xét, bổ sung giúp nhau hoàn thiện hơn về chuyên môn nghiệp vụ. Cần tránh những biểu hiện tiêu cực như sự phê phán nhau về năng lực chuyên môn hay phẩm chất nghề nghiệp của các giáo viên với nhau. Các nhóm sẽ làm việc trung bình từ 2-3 bài học/ năm do việc nghiên cứu có cường độ cao và chiếm khá nhiều thời gian.

2.2. Quá trình nghiên cứu bài học

NCBH để đánh giá hoặc cung cấp cho giáo viên những thông tin phản hồi về thực tiễn dạy học. Giáo viên thực hiện NCBH thì thu thập được những nhận xét, kết quả cho việc sử dụng các phương pháp của mình đến sự tư duy của học sinh. Có nhiều cách phân chia các giai đoạn của quá trình NCBH.

Stigler và Hiebert(1999) chia quá trình NCBH thành 7 bước cụ thể:

+Lập kế hoạch nghiên cứu bài học.

+ dạy học  và quan sát các bài học nghiên cứu.

+ Đánh giá, nhận xét các bài học đã được dạy.

+ Chỉnh sửa các bài học dựa trên sự góp ý, bổ sung sau những gì thu thập được sau khi tiến hành bài học nghiên cứu lần 1.

+ Tiến hành dạy các bài học đã được chỉnh sửa.

+ Tiếp tục đánh giá, nhận xét kết quả lần 2.

+ Đưa vào ứng dụng rộng rãi trong quá trình dạy học.

 

 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Có tác giả lại chia quá trình NCBH thành 3 giai đoạn: (1) Đặt kế hoạch; (2) Thực hiện bài học nghiên cứu và (3) Các hoạt động sau khi thực hiện bài học (hay còn gọi là giai đoạn suy ngẫm, phản ánh, phê phán). Ở tất cả các bước đều có sự hợp tác của các giáo viên.

Lewis (2002) chia quá trình nghiên cứu bài học thành 4 bước:

+Tập trung vào bài học nghiên cứu.

+Đặt kế hoạch cho bài học nghiên cứu.

+Dạy và thảo luận về bài học nghiên cứu.

+Suy ngẫm và tiếp tục dạy hay đặt kế hoạch tiếp theo.

2.3. Phân biệt “nghiên cứu bài học” với cách bồi dưỡng, dự giờ giáo viên hiện nay

Như đã trình bày ở trên, NCBH là một mô hình bồi dưỡng, phát triển nghề nghiệp cho giáo viên, nhưng nó có sự khác biệt cơ bản với cách bồi dưỡng, dự giờ truyền thống ở chỗ:

Thứ nhất, thay cho việc cung cấp kiến thức được xác định từ các chuyên gia bên ngoài nhà trường, NCBH xuất phát từ chính nhu cầu giải quyết những vấn đề trong thực tiễn lớp học mà giáo viên đang phải đối mặt. Trong các lớp bồi dưỡng giáo viên truyền thống các chuyên gia bên ngoài là người cung cấp kiến thức, còn các giáo viên là những người thụ động tiếp nhận kiến thức. Khi tham gia NCBH, các nhóm nghiên cứu tự nhận thấy những yêu cần giải quyết đối với mỗi bài học nhất định và cùng nhau thảo luận để tìm cách giải quyết các yêu cầu đó. Trong NCBH cũng có thể có sự tham gia của các chuyên gia bên ngoài nhưng họ chỉ đóng vai trò là người quan sát, tư vấn, rút kinh nghiệm cho nhóm và cung cấp thêm những kinh nghiệm của các nhóm nghiên cứu khác chứ không đóng vai trò chủ đạo như trong các phương pháp truyền thống khác.

Thứ hai, mối quan hệ giữa những người tham gia NCBH là bình đẳng khác với quan hệ thứ bậc, giữa người dạy với người học trong các lớp tập huấn. Trong các phương pháp bồi dưỡng giáo viên truyền thống, giáo viên khi đó đóng vai trò là người học và những chuyên gia đóng vai trò là thầy giáo, là người cung cấp kiến thức. Trong NCBH, những người tham gia có vai trò như nhau, cùng nhau hợp tác, cùng nghiên cứu,  cùng thảo luận hướng tới một mục tiêu chung của sự phát triển. Những người tham gia NCBH đều trên tinh thần tự nguyện và có vai trò như nhau trong việc phát triển bài học đạt được những mục tiêu đề ra.

Thứ ba, trong các lớp tập huấn, giáo viên là người tiếp nhận kiến thức mới (ở vị thế bị động),  còn trong nghiên cứu bài học giáo viên giữ vai trò chủ động, là một người cải cách, một nhà quan sát, tự đánh giá thực tiễn của mình. Với phương pháp truyền thống giáo viên được tiếp xúc với cái mới thông qua các chuyên gia, hoàn toàn theo kiểu thầy truyền thụ trò lắng nghe. Trong khi ở NCBH, giáo viên là người mang cái mới vào dạy học, là nhà quan sát thực tế có thể tự đánh giá khả năng của mình thông qua việc quan sát trực tiếp lớp học.

Với các phương pháp dạy học truyền thống phẩm chất và năng lực của giáo viên luôn luôn là một vấn đề để đánh giá trong những buổi dự giờ, giáo viên luôn mang nặng tâm lí về xếp hạng và chủ yếu chú trọng tới bài giảng,  giáo án của mình mà ít quan tâm xem học sinh học như thế nào. Hơn nữa, nếu có quan tâm đến học sinh thì đó là những học sinh nổi bật trong các lớp học. Trong khi đó đối với NCBH, thì sự quan sát hướng đến tất cả học sinh trong lớp không riêng gì các học sinh nổi bật, thậm chí là chú ý hơn tới những học sinh cá biệt trong lớp để xem cách học sinh học, cách học sinh tư duy, chứ phẩm chất hay năng lực của giáo viên không phải là vấn đề được đánh giá. Trong các phương pháp dự giờ truyền thống yếu tố phẩm chất nghề nghiệp của giáo viên luôn là một vấn đề được xem xét đánh giá cho nên có một số hạn chế trong việc nhận xét, góp ý của các giáo viên khác, nhất là đối với các giáo viên trẻ thì vấn đề nhận xét, đánh giá các giáo viên nhiều kinh nghiệm là điều cực kì khó khăn; còn với NCBH các giáo viên góp ý với tinh thần cùng giúp nhau hoàn thiện hơn chứ không phải để đánh giá giáo viên, do vậy sự góp ý là chân thành và mọi thành viên có thể tự do nói nên ý kiến của mình mà không sợ làm giảm tình đoàn kết giữa các đồng nghiệp.

            Dự giờ bài học: theo phương pháp dự giờ truyền thống các giáo viên dự giờ chỉ chú ý đến giáo viên dạy và họ thích ngồi ở đằng sau và ít chú ý tới học sinh. Theo mô hình NCBH trọng tâm quan sát giờ học là bài học và quá trình học của học sinh, giáo viên dự giờ quan sát từ phía trước để có thể thấy nét mặt của học sinh.

            Suy ngẫm về bài học: theo phương pháp dự giờ truyền thống có nhiều giáo viên có thái độ phê phán giáo viên dạy (như thường nhận xét: cô, thầy không thể làm việc này hay việc kia,  phải làm như thế này, không được làm như thế kia… ) hay ca ngợi rõ ràng nhưng không chi tiết. Theo mô hình NCBH các giáo viên hợp tác cùng nhau xây dựng kế hoạch bài học và nó là sản phẩm của cả nhóm, tất cả các thành viên đều phải chịu trách nhiệm về bài học cho dù nó thành công hay thất bại chứ không phải chỉ riêng giáo viên đứng lớp, và do đó sẽ không có thái độ phê phán cách dạy của giáo viên, vì cách dạy đó đã được cả nhóm thống nhất trong kế hoạch của bài học, nếu cách dạy đó chưa phù hợp, đó là khuyết điểm của cả nhóm và việc họ cần làm là cùng nhau khắc phục.

2.4. Ứng dụng “nghiên cứu bài học” trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên hóa học.

         Áp dụng mô hình NCBH cho bộ môn Hóa học ở các trường phổ thong một cách thường xuyên như một biện pháp quan trọng để nâng cao nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên Hóa học.

Áp dụng NCBH trong dạy học hóa học trường sư phạm cho sinh viên là những giáo viên tương lai. Khi biết cách áp dụng NCBH vào quá trình dạy học của mình sẽ làm cho họ cảm thấy tự tin hơn, học hỏi được nhiều kinh nghiệm tốt từ các giáo viên có chuyên môn. Từ đó giúp họ dần nâng cao năng lực chuyên môn của mình. Có thể áp dụng mô hình NCBH cho sinh viên Hóa học ở môn thực hành thí nghiệm, các học phần lý thuyết và đặc biệt là thông qua các đợt thực tập sư phạm.

Các giáo viên tham gia nhóm NCBH cần thực hiện với một tinh thần bình đẳng, hợp tác, đoàn kết, tôn trọng, học hỏi lẫn nhau và theo đúng tinh thần trọng tâm của NCBH:

·        Nhóm giáo viên hợp tác xây dựng giáo án.

·        Tiết học minh hoạ là tiết học như bình thường hàng ngày.

·        Phát giáo án của tiết học cho các giáo viên dự giờ.

·        Giáo viên dự giờ quan sát từ phía trước để có thể thấy nét mặt của học sinh.

·        Các giáo viên cần học cách quan sát: nhận ra học sinh gặp khó khăn (biểu hiện trên nét mặt), nhận ra học sinh cần được quan tâm, sai sót các em mắc phải, cách giải quyết vấn đề…

·        Nêu lại những ấn tượng của mình khi quan sát học sinh đang học.

·        Chỉ ra thực tế và có bằng chứng: chỉ chia sẻ thực tế bằng lời thì vẫn trừu tượng và khó, chia sẻ cần có bằng chứng và vì thế việc sử dụng máy quay video rất quan trọng.

·        Không đánh giá cách dạy của giáo viên.

·        Sự ủng hộ từ phía lãnh đạo: quyết tâm, thuyết phục giáo viên…

·        Tiếp tục tiến hành: thời gian tối thiểu muốn thay đổi trường học ít nhất là một năm với ít nhất là 30 lần sinh hoạt chuyên môn.

          Có thể ban đầu mô hình này cần thí điểm ở một số trường học để tìm ra mô hình ứng dụng hiệu quả nhất của “Nghiên cứu bài học” ở Việt Nam. Sau đó mới tiến hành áp dụng đại trà ở các môn học, các trường trung học, các cấp học trong cả nước để cải tiến chất lượng dạy và học một cách bền vững.

2.5. Những lợi ích do nghiên cứu bài học mang lại

            NCBH là một mô hình bồi dưỡng, phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên bởi những lợi ích to lớn mà nó mang lại cho những người tham gia.

            Mục đích của NCBH là tìm hiểu những gì học sinh nghĩ,  những gì học sinh tư duy để có những phương pháp dạy cho phù hợp chứ không phải là một bài học biểu diễn. Tất cả các thành viên trong nhóm đều phải có những đóng góp và các ý tưởng đó cần phải được tôn trọng. Do vậy, bài học là thuộc về cả nhóm chứ không phải của riêng người dạy. Như vậy khi các thành viên tham gia vào NCBH thì sẽ kết hợp được những ưu điểm và cùng hoàn thiện bài học hơn.

            Thông qua NCBH, giáo viên cảm thấy tập trung hơn vào bài học và tăng sự thích thú trong công việc dạy học.

            NCBH là để cải tiến nội dung dạy học cụ thể nên thông qua quá trình hợp tác với các giáo viên trong nhóm, họ hiểu sâu hơn về nội dung kiến thức của bài học vì chính họ phải đào sâu suy nghĩ hơn và được bổ sung từ ý kiến của những người khác, qua đó năng lực sư phạm của họ được cải thiện. Giáo viên phải cùng nhau thảo luận về những phản ứng có thể có ở học sinh trong quá trình học để có những phương pháp dạy học cho phù hợp. Như vậy giáo viên có thể dự kiến trước được những kết quả đối với một bài học và những phản ứng của các học sinh trong lớp.

            Trong các lớp học do giáo viên dạy một lớp học,  giáo viên có thể không phát hiện ra khuyết điểm của mình, họ tự hài lòng với phương pháp giảng dạy của mình, dẫn đến họ dạy bài học đó theo đúng một cách trong nhiều năm và họ cảm thấy nhàm chán, đơn điệu, nhưng qua quá trình hợp tác NCBH họ được quan sát người khác dạy, được thấy cùng một nội dung đó nhưng ở người khác lại sử dụng một phương pháp khác, cách dạy khác do đó vốn kinh nghiệm của họ trở nên phong phú hơn, qua sự đóng góp của tập thể họ nhìn ra điểm yếu trong phương pháp, kĩ năng của mình, thông qua đó năng lực chuyên môn của họ được nâng cao và họ khám phá được nhiều điểm mới mẻ trong công việc. Họ tự tin hơn khi dạy bài học đó ở lớp của mình, phát triển khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn.

            NCBH tạo cơ hội cho giáo viên xem xét việc dạy và học diễn ra trong thực tế một cách khách quan thông qua dữ liệu quan sát giờ học trực tiếp hoặc gián tiếp (qua dữ liệu quan sát của các giáo viên khác, băng ghi hình, ý kiến nhận xét… ). Khi đứng lớp có nhiều biểu hiện của học sinh mà giáo viên không bao quát hết được, nhưng khi ngồi ở dưới quan sát hay quan sát qua băng ghi hình buổi học, giáo viên sẽ bao quát được quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, những gì các đồng nghiệp khác của họ quan sát được tiếp tục bổ sung vào sự quan sát của họ. Qua quá trình quan sát giáo viên thấy được tác động của phương pháp dạy học của mình tới học sinh, “nhìn thấy được “ quá trình học, suy nghĩ của học sinh và tránh áp đặt chủ quan cho học sinh. Qua những phản ứng của học sinh với bài học, giáo viên có thể tự nhận thấy mức độ hiệu quả của phương pháp mà mình đang sử dụng chứ không phải từ sự đánh giá của các giáo viên khác. Cũng qua những phản ứng đó mà giáo viên sẽ có những thay đổi về phương pháp giảng dạy cho phù hợp hơn với các lớp sau.

            NCBH đặt trọng tâm vào học tập của học sinh. Thông qua quan sát và thảo luận về những gì đang xảy ra trong lớp học, cách học sinh phản ứng với các tác động, giáo viên tham gia có nhận thức đầy đủ hơn về cách học sinh học và suy nghĩ cũng như cách học sinh hiểu bài, đáp lại những cái giáo viên dạy. Hơn nữa, tham gia nghiên cứu bài học giúp giáo viên học được cách quan sát, không phải là quan sát những cái bề ngoài hời hợt mà là quan sát quá trình học sinh học những cái họ dạy. Giáo viên học được cách phân tích, rút ra kết luận, sửa đổi từ những số liệu quan sát được. Ngoài ra,  tham gia NCBH giúp giáo viên nâng cao kĩ năng thiết kế công cụ dạy học để làm cho học tập và tư duy của học sinh trở nên dễ hiểu đối với giáo viên và có thể nhìn thấy được.

NCBH thúc đẩy, duy trì sự hợp tác giữa các giáo viên, giúp các giáo viên phát triển kĩ năng làm việc nhóm. Việc hợp tác này thu hẹp khoảng cách giữa các thành viên trong nhóm nghiên cứu và góp phần phát triển không khí hợp tác, đoàn kết trong nhà trường. NCBH tạo ra cộng đồng học tập, văn hóa học tập và củng cố tình đồng nghiệp trong nhà trường. Sau khi NCBH các giáo viên sẽ viết báo cáo chia sẻ những kinh nghiệm họ thu được qua quá trình NCBH, đưa ra một kế hoạch bài học chi tiết để các nhóm giáo viên khác có thể tham khảo và phát triển nó vào thực tế việc dạy và học tại lớp mình, hoặc họ có thể thành lập một nhóm NCBH và dựa trên thành quả nghiên cứu của những người đi trước, tiếp tục nghiên cứu để phát triển bài học sâu hơn. Một khi kết quả của quá trình NCBH được chia sẻ, kết quả và những kinh nghiệm đó không còn bó hẹp ở phạm vi nhóm nghiên cứu nữa mà thông qua sách báo, internet, nó sẽ được các giáo viên ở những nơi khác biết đến và đóng góp tích cực vào việc sửa nội dung chương trình, cải tiến phương pháp giảng dạy, qua đó nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên và chất lượng học của học sinh. Điều này rất có ý nghĩa với các giáo viên trẻ chưa thực sự có nhiều kinh nghiệm trong việc dạy học.

            Tham gia vào NCBH giáo viên thực hiện vai trò của người nghiên cứu, cải tạo thực tiễn và họ trở nên vững vàng hơn về chuyên môn,  nghiệp vụ, tăng sự chuyên nghiệp của giáo viên và giúp giáo viên tự tin hơn trong việc giải quyết vấn đề của thực tiễn để nâng cao chất lượng dạy học của mình. Trước khi tiến hành bài học nghiên cứu, mỗi giáo viên cũng cần nghiên cứu thật kĩ lưỡng các nội dung dạy học, suy nghĩ thật cẩn thận về những vấn đề có thể phát sinh trong quá trình dạy học. Do đó, quá trình thực hiện bài học có thể coi như một quá trình nghiên cứu lại bài học của giáo viên. Nghiên cứu bài học tạo cơ hội cho giáo viên có thể quan tâm tới tất cả các học sinh trong lớp, tạo cơ hội phát triển cho mọi học sinh. Và dẫn tới hệ quả tất yếu là nâng cao chất lượng học tập của học sinh.

            Có lẽ, nên xem NCBH như một cái cầu kết nối giữa các giáo viên, xây dựng tình thân ái giữa họ. Nếu quá trình NCBH được tiến hành trong một trường nó sẽ giúp cải tiến chất lượng dạy học các bộ môn. Nếu nó được tiến hành trong một cụm trường, nó sẽ giúp các giáo viên của các trường khác nhau chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Nếu nó được tiến hành trong phạm vi một khu vực, một quốc gia thì nó giúp cải tiến phương pháp dạy học, sửa nội dung sách giáo khoa, cấu trúc chương trình. Qua đó, NCBH giúp thu hẹp khoảng cách, chất lượng giáo dục giữa các trường,  các vùng miền.

            Ngoài ra NCBH còn là cái cầu kết nối các nội dung kiến thức, giữa các bộ môn để thu được sự hỗ trợ bổ sung tốt nhất giữa các bộ môn góp phần đào tạo toàn diện cho học sinh, giữa các cấp học để thu được chương trình đào tạo mạch lạc, thông suốt.

            Một lợi ích nữa xuất phát từ tính linh hoạt, ưu việt của NCBH, đó là nó có thể thực hiện được ở mọi cấp học, mọi môn học từ các môn tự nhiên, xã hội,… cho tới các môn giáo dục thể chất, nó cũng không đòi hỏi một sự đầu tư khổng lồ mà chỉ cần một nhóm giáo viên sẵn sàng hợp tác cùng nhau.

3.      KẾT LUẬN

Qua việc NCBH chúng ta có thể nhận ra tính ưu việt của NCBH so với các hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ khác. NCBH xuất phát từ thực tiễn cần giải quyết những khó khăn thực tiễn trong lớp học của giáo viên. Thông qua NCBH giáo viên được hợp tác cùng nhau,  làm việc cùng nhau để xây dựng một kế hoạch bài học hoàn chỉnh. Trong NCBH, các giáo viên được thẳng thắn trình bày ý kiến của mình về bài học trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau chứ không phải là để phê phán; được cùng nhau chia sẻ và học tập những kinh nghiệm tốt của nhau, không phân biệt người nhiều kinh nghiệm hay ít kinh nghiệm, giáo viên đứng lớp lâu năm hay giáo viên mới ra trường. Tất cả tập hợp trong một nhóm nghiên cứu khoa học cùng bổ sung và đóng góp cho nhau những thiếu sót, giải quyết những khó khăn trong quá trình giảng dạy với tinh thần bình đẳng, thân ái, hợp tác,  đoàn kết, học hỏi lẫn nhau. Các giáo viên đứng lớp cũng không phải lo lắng về sự chú ý của những giáo viên khác bởi sự quan sát trong nghiên cứu bài học là hướng vào các học sinh, cách học sinh phản ứng với bài học. Từ đó có thể khẳng định NCBH là một hình thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên đạt hiệu quả và hoàn toàn có thể áp dụng trong các nhà trường.

08:00:01 01/01/1970 - Lượt xem: 33786
Tin liên quan